Trong bài viết này, tôi xin giới thiệu đến các bạn cây lựu và công dụng chữa sán của loại cây này. Mời các bạn cùng tìm hiểu.
Cây lựu còn có tên gọi là bạch lựu, tháp lựu, lựu chùa tháp. Thuộc họ lựu punicae.
Ta dùng vỏ thân , vỏ cành, vỏ rễ phơi hay sấy khô (cortex granati) có khi dùng vỏ quả lựu phơi hay sấy khô (pericarpium granati). Vỏ, thân và rễ lựu có độc, dùng phải cẩn thận.
Cây lựu là cây thuộc loại thân mộc, cao chừng 3-4m, cây nhỏ, có khi có gai. Lá dài, nhỏ, mềm mỏng, mọc đơn, mép nguyên có khi mọc thành cụm nhưng thường mọc sole hoặc hơi mọc đối, cuống ngắn. Mùa hạ nở hoa màu đỏ tươi hoặc màu trắng (bạch lựu), mọc riêng lẻ hoặc từng xim có độ 3 hoa. Quả to bằng ngón tay. Đầu quả còn 4-5 lá đài tồn tại. Vỏ dày, ngoài da màu lục, khi chín có màu vàng đỏ lốm đốm. Trong quả có tám ngăn xếp thành hai tầng, tầng trên có ba ngăn, tầng dưới có ba ngăn. Các loại ngăn phân cách bởi các màng mỏng. Hạt rất nhiều, hình 5 cạnh, sắc hồng trắng.
Được trồng ở khắp nơi để làm cảnh và lấy quả. Trồng bằng cách dâm cành. Tỷ lệ ancalit thay đổi tùy theo cách bón phân.
Nếu bón bằng canxi supephotphat, tỷ lệ ancaloit sẽ là 5,5% ở rễ.
Nếu bón bằng phân amon sunfat, tỷ lệ ancaloit là 4,2 % ở cành và 6,3% ở rễ.
Vậy thì tỷ lệ ancaloit trong rễ lúc nào cũng cao hơn. Thường người ta quy định tỷ lệ ancaloit toàn phần là 2,5 %.
Bóc vỏ về phơi khô để dành. Dùng càng sớm càng tốt. Có người nói vỏ để lâu quá một năm không còn tác dụng. Nhưng còn đối với một số quan điểm khác cho rằng để giành trên 10 năm vẫn còn tác dụng, không phải chế biến gì khác.
Làm thuốc chữa sán (phụ nữ có thai và trẻ em không dùng được).
Nên dùng vỏ rễ lựu vì trong vỏ, chất peletierin, isopeletierin được kết hợp tự nhiên với tanin thành một chất không tan, tác dụng nhiều với sán ở trong ruột, ít làm mệt cho cơ thể con người khi dùng. Tuy nhiên uống cả vỏ hơi khó uống.
Nên chọn vỏ mới đào, vì vỏ tươi hiệu lực mạnh nhiều hơn do nhiều ancaloit. Khi dùng rễ khô, cần ngâm nước vài lần trước khi pha chế thì vẫn có hiệu lực chữa sán (soubeyran).j,e. De vrij đã dùng vỏ lựu bảo quản dược 13 năm để chế cao mà vẫn có hiệu lực như vỏ tươi.
Ta có thể dùng peletierin chế từ vỏ lựu. Liều dùng peletierin sunfat thường là 0,30g phối hợp với 0,40g tanin. Một số tác giả cho rằng tác dụng của peletierin có tác dụng thường kèm tới 50-60% pseudo-peletierin không có tác dụng trong trường hợp này liều dùng phải tăng lên từ 0,30-0,50 trong 24 giờ. Nhưng dùng phải rất thận trọng.
Ngoài công dụng chữa sán, vỏ rễ và vỏ thân còn dùng làm thuốc ngậm chữa đau răng, chữa đi ngoài, đi lỵ. Nhưng để chữa lỵ đi ngoài, thường dùng vỏ quả. Về công dụng của vỏ quả sẽ được giới thiệu ở một bài khác.
Ngoài ra còn dùng để chế thuộc da, làm mực.
Các đơn thuốc có vỏ lựu.
1. thuốc chữa sán theo dược thư của Pháp
Vỏ lựu khô tán vừa phải 60g
Nước cất 750g
Cần ngâm bột trong 6 giờ. Sau đó sắc còn 500g rồi gạn và lọc.
Sáng sớm, uống thuốc này, chia làm hai lần hay ba lần uống, cứ cách nửa giờ uống một lần, sau khi uống một liều cuối cùng sau hai giờ thì uống một liều thuốc tẩy. Khi uống thuốc cần nằm nghỉ, nhắm mắt vào cho đỡ mệt.
2. đơn thuốc chữa sán có thuốc tẩy
Vỏ lựu 40g
Đại hoàng 4g
Hạt cau 4g
Nước 750ml sắc còn 300ml.
Tối hôm trước nhịn đói. Sáng sớm hôm sau uống thuốc này, chia làm 2-3 lần uống. Trong khi uống cần nằm nghỉ. Đợi khi nào thật buồn đi ngoài hãy đi, khi đi ngoài thì mông nhúng thẳng vào một chậu nước ấm để sán ra hết.
Trên đây là những thông tin về công dụng chữa bệnh của cây lựu. Mong rằng qua bài viết này, các bạn có thể nhận được nhiều thông tin hữu ích về y khoa. Chúc các bạn luôn may mắn và thành công.
Hoàng Minh Trí
Trả lời