Chuông báo thức reo lên liên hồi như thúc dục, tôi uể oải với tay tắt đồng hồ báo thức, rồi lại kéo chăn lên cao quá ngực, đầu dụi dụi vài cái vào gối rồi lại nhắm mắt định sẽ ngủ tiếp. Chợt tôi mở to mắt nhìn lên trần nhà, rồi tự nhủ thầm: “Ấy chết, sáng nay có bài kiểm tra tiết đầu”. Tôi bật người ngồi dậy, mặt mày bơ phờ vì tối qua thức khuya để ôn bài cho buổi kiểm tra sáng nay. Bỗng tôi khẽ rùng mình vì cảm thấy lạnh và như một phản xạ tự nhiên, tôi kéo vội lấy tấm chăn còn chưa kịp gấp để quấn quanh người. Những cơn gió lạnh buốt đang thi nhau luồn qua khe cửa sổ đầu giường, chúng như thể bám lấy tôi vậy. Tôi khẽ lắc lắc cái đầu cho tỉnh ngủ, rồi đưa tay lên che miệng để giấu đi cái ngáp dài mệt mỏi, miệng càm ràm: “Quái lạ, thời tiết gì mà hay thế không biết, đã sang đầu tháng ba rồi mà trời vẫn rét như thể mùa đông vậy”. Vừa đúng lúc thằng bạn cùng phòng thức giấc, nó nheo nheo mắt, rồi đáp lời tôi bằng cái giọng còn ngái ngủ: “có gì lạ đâu anh, tại anh ở miền Nam nên không biết đấy thôi, ở miền Bắc đầu tháng ba rét là bình thường, rét Nàng Bân mà anh”.
Tôi nghe nói tới rét Nàng Bân thì thấy lạ, liền hỏi lại: “Rét mà cũng có tên cơ à, lại còn có cái tên khá nữ tính nữa chứ. Sao không gọi với cái tên nào đó cho khác, mà phải là Nàng Bân?”
Thằng bạn tôi kéo chăn quấn quanh người, đưa tay dụi mắt, rồi đáp lời tôi bằng cái giọng trầm trầm có phần hơi nhấn nhá: “Em không rõ cái tên ấy có từ bao giờ, chỉ biết khi em có trí khôn thì cha ông đã gọi cái rét đầu tháng ba là rét Nàng Bân rồi. Hồi nhỏ, nhớ có lần em lẽo đẽo theo bà nội, cứ thắc mắc mãi với bà về rét Nàng Bân”.
Tôi nghe đến đây thì mắt sáng rỡ, cái trí tò mò trỗi dậy quên cả cái buồn ngủ cùng cái rét mướt, vội rướn người về phía thằng bạn thân, rồi hỏi dồn: “ Thế nội của mày nói sao?”.
Nó thấy tôi hăm hở muốn nghe, ra chừng cũng đắc chí. Nó khẽ nghiêng người qua lại, mắt nhìn xa xăm như thể hồi tưởng lại một ký ức xưa cũ nào đó. Tôi chăm chú nhìn nó như chờ đợi. Nó tiếp với giọng trầm trầm mang nặng cái điệu của đám con trai Bắc Bộ. “Nội em kể câu chuyện của một thời xa xưa, không có mốc thời gian cụ thể, chỉ biết nó đã xảy ra từ thời xưa lắm và được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, về sự tích rét Nàng Bân”.
Tôi hớn hở, lời nói như thúc dục: “Vậy mày thuật lại cho anh nghe coi”. Nó khẽ quay sang nhìn tôi, rồi tiếp câu chuyện với giọng chậm rãi đều đều, không để ý tới cái dáng điệu hau háu mong chờ của tôi.
Ngày xưa, ở một làng quê nghèo, có gia đình nông dân nọ sinh được cô con gái nết na, thùy mỵ. Cô được cha mẹ đặt cho cái tên là Bân. Cô chẳng mặn mà nhan sắc như những cô gái trong các câu chuyện cổ tích ta thường nghe. Cô chỉ là môt người nông dân chân chất, bình dị như bao người nông dân khác. Cũng chân lấm tay bùn, cũng con cá, mớ rau. Ngày ngày, bên đàn gà, đàn lợn, cũng lom khom bên chái bếp sau nhà với làn khói lam lan tỏa.
Nhưng cái khác ở cô là một đức tính tỉ mỉ, chu đáo đến khó tả. Cô làm việc gì cũng rất đổi thong thả, không hối hả vội vàng, không phải vì cô chậm chạp. Mà vì cô thích chăm chút cho công việc mình làm, cô làm một cách say sưa, như thể cô đang tận hưởng công việc vậy. Lúc nào cô cũng muốn đạt được kết quả tốt đẹp nhất.
Thế rồi, thời gian cứ như con nước vô tình lặng lẽ trôi qua. Cô cũng đến tuổi mà ông bà mình hay nói là thành gia lập thất. Như bao cô gái khác trong làng, cô cũng được cha mẹ cậy người mai mối, tìm một nơi môn đăng hộ đối, để tấm thân cô nương nhờ những ngày tháng còn lại của cuộc đời. Và cứ thế, cô được gả vào một gia đình nông dân ở làng bên. Họ đón cô về với mớ cau, khay trầu, trong cái ấm áp của cảnh đời nghèo khó.
Ở nhà chồng, cô vẫn giữ thói quen làm việc như ngày nào. Cũng cần mẫn, say sưa với công việc. Gia đình nhà chồng thấy thế cũng không lấy làm khó chịu, vẫn một mực yêu thương cô. Thời gian trôi qua, thấm thoát đông đã trở lại. Cô thương chồng ngày ngày lam lũ, lại phải chịu thêm cảnh trời rét mướt. Rồi cô nảy ra ý định đan cho chồng một tấm áo len.
Không chần chừ gì nữa, cô bắt tay ngay vào công việc. Cứ thế, cô bắt đầu chọn từng sợi len, móc từng mối chỉ, cẩn thận đan từng chút, từng chút một. Cô cứ say mê đan áo cho chồng, quên cả thời gian, cũng chẳng kể ngày đêm. Chiếc áo theo thời gian cứ từng chút một thành hình. Dân gian mình vẫn truyền nhau câu ca rằng:
“Nàng Bân đan áo cho chồng
Suốt ba tháng ròng mới được cổ tay”
Cứ thế, đông qua xuân đến. Mãi đến khi nắng ấm đã trải khắp đất trời, thì cô mới hoàn tất những mối len cuối cùng. Than ôi! Chiếc áo mới đẹp làm sao. Nó vẹn toàn tới mức khó có thể chê vào đâu được. Cũng dễ hiểu thôi, cô đã chăm chút như vậy cơ mà. Từng sợi len, từng đường kim, mũi chỉ đều được cô nâng niu, tỉ mỉ và đặt cả tâm huyết của mình vào đó.
Cô sung sướng khôn tả, định bụng khi chồng đi làm về sẽ trao cho chồng chiếc áo, như một món quà tâm đắc. Cô ôm chiếc áo trước ngực, tưởng tượng đến dáng vẻ hạnh phúc của chồng khi có chiếc áo mới và mơ màng đến hình ảnh của chàng khi mặc nó.
Chợt nét mặt cô trầm hẳn xuống, có lẽ cô đã kịp nhận ra rằng, trời đã ấm lại từ lâu. Chồng cô vốn chẳng thể mặc chiếc áo cô đã cất công đan suốt mấy tháng ròng. Cô ngồi sụp xuống, khóc nấc lên, tiếng khóc thảm thiết như xé lòng. Tiếng than khóc của cô vang vọng khắp nơi khiến người người thương cảm. Rồi tiếng kêu khóc ấy thấu đến trời xanh. Thượng đế bèn triệu tập chư vị thần tiên lại và tìm hiểu sự tình. Khi đã rõ đầu đuôi câu chuyện, Thượng đế bèn cho đòi thần cai quản thời tiết chốn nhân gian đến và phán: “ Trẫm lệnh cho Khanh làm cho nhân gian rét lại một lần nữa, để người chồng của cô gái kia có cơ hội mặc chiếc áo cô ấy đã vất vả đan”. Thần cai quản thời tiết kính cẩn tâu rằng: “Khởi bẩm Ngọc Hoàng, chỉ vì một chiếc áo len mà phải làm khuấy động nhân gian, làm mùa vụ đảo lộn, khiến sinh linh phải chịu cảnh rét mướt, như thế liệu có đáng không ạ. Áo đan rồi, năm nay không mặc thì để sang mùa đông năm sau, có mất đi đâu mà vội ạ. Thần cúi xin Bệ hạ minh xét”.
Thượng đế gật gật đầu, tay khẽ vuốt bộ râu đen dài, rồi ôn tồn đáp: “Khanh nói không phải không có lý, nhưng Ta có lẽ của ta. Chúng ái Khanh hãy nhìn xuống nhân gian mà xem. Con người bây giờ giả dối trăm bề. Họ làm việc qua loa, đại khái, luôn nghĩ mọi cách để hoàn thành công việc một cách nhanh chóng. Họ không ý thức được giá trị của lao động. Họ xem lao động như một thứ nghĩa vụ phải hoàn thành trong đời. Hôm nay, Ta muốn cho đất trời rét lại một lần nữa để nhắc nhở chúng sinh nhớ lại giá trị cao cả của lao động. Để họ biết lấy đức tính cao quý của người con gái tên Bân kia làm thước đo cho muôn dân trong lao động”. Thần cai quản thời tiết bấy giờ mới vỡ lẽ, cúi đầu phục mệnh.
Theo thông lệ, hàng năm cứ vào đầu tháng ba âm lịch, đất trời lại đón vài ngày rét buốt, như để nhắc nhở con người ý thức giá trị thực sự của lao động. Chẳng nên vì lợi ích vật chất mà quên đi giá trị cao cả ấy.
Thằng bạn tôi kết thúc câu chuyện, rồi rón rén làm vệ sinh cá nhân, để chuẩn bị lên giảng đường. Tôi vẫn ngồi bó gối trên giường, cằm đặt lên hai đầu gối, mắt nhìn xa xăm vô định. Tôi nghĩ thầm: “Không ngờ, sau một cái rét tháng ba lại có cả một câu chuyện dài, hàm chứa tính nhân văn sâu sắc đến vậy.”
Tôi chậm chạp gấp lại chăn màn, rồi lặng lẽ làm vệ sinh cá nhân, lòng ngổn ngang trăm mối về câu chuyện vừa được nghe. Tôi thay quần áo, không quên khoác lên mình một chiếc áo đông dày cộm. Bên ngoài, gió vẫn thổi từng cơn buốt giá. Tôi đưa tay chỉnh lại balô như một thói quen thường nhật, rồi bước đi trong gió rét. Tôi nhanh chóng hòa mình vào cái không khí nhộn nhịp của phố phường Hà Nội vào buổi sáng. Dường như chẳng mấy ai quan tâm đến cái rét tháng ba này. Họ hối hả, tất bật với công việc của mình. Những người bán hàng rong bên vỉa hè đang thoăn thoắt đôi tay, miệng không ngớt những lời mời chào khách ngọt lịm. Những cô cậu sinh viên bước vội với những món ăn sáng trên tay, vừa đi vừa nhìn đồng hồ. Tiếng mời chào quen thuộc của những chú xe ôm đang đậu ở ngã tư đường, dù biết chắc chắn tôi sẽ chẳng bao giờ đi. Tiếng còi xe xin đường inh ỏi. Những chiếc xe máy chen lấn nhau từng chút một trên con đường chật hẹp, có khi leo lên cả vỉa hè mà đi. Tôi tự hỏi, chẳng biết câu chuyện rét Nàng Bân có còn đọng lại chút gì trong tâm thức của những người dân xứ Hà thành hay không, mà sao thấy ai cũng trong trạng thái vội vã như vậy.
Tôi cứ miên man trong dòng suy nghĩ, cho đến khi tới cổng trường lúc nào không hay. Tôi vào giảng đường, cũng với chỗ ngồi quen thuộc. Tiếng giảng bài đều đều của thầy giáo vang lên, tiếng những trang giấy được lật có phần hơi vội vã của những đứa bạn cùng lớp. Tất cả như cuốn tôi vào một ngày học tập mới, một ngày như bao ngày trước đó đã từng đi qua đời tôi.
(Minh Trí)
Trả lời